Thứ tư, 03/09/2025 09:42     |   Tiêu dùng     |   Nhịp sống miền Tây     |   Phụ nữ Sức khoẻ
|
Hà nội 21*C/61%
Thứ tư, 23/07/2014 11:23

Sốt xuất huyết: Những loại thuốc cần tránh khi mắc sốt xuất huyết

Sốt xuất huyết gây ra các rối loạn, đặc biệt ở mạch máu - máu. Dùng thuốc nhằm lập lại thăng bằng, chống lại các triệu chứng bất lợi. Nhưng nếu dùng không đúng thuốc, không đúng cách thì sự rối loạn ấy sẽ tiến triển theo hướng xấu, khiến bệnh trầm trọng thêm.

Các thuốc thường dùng và không được dùng:

Dùng thuốc hạ nhiệt:

Chỉ dùng paracetamol: Paracetamol độc với gan, thận nhưng tính độc này chỉ xảy ra khi dùng liều rất cao (15g/ngày với người lớn) và hoặc/ lâu dài hay khi dùng cùng với nhiều rượu (rượu làm cạn kiệt nguồn glutathion để chuyển hóa paracetamol thành chất không độc). Còn khi dùng với liều điều trị (thấp hơn nhiều so với liều trên) trong thời gian ngắn (2-5 ngày để hạ sốt) thì paracetamol không gây độc cho cả người lớn lẫn trẻ em. Liều dùng trong điều trị SXH: Một lần: 15mg/kg thể trọng (750mg cho người 50kg). Một ngày: 2-3 lần (1.500mg-2.250mg).

Không được dùng aspirin: Trong SXH có hiện tượng chảy máu. Aspirin ngăn sự tập kết tiểu cầu, chống đông máu nên làm cho việc chảy máu do SXH gây ra không cầm được (nhất là xuất huyết đường tiêu hóa). Kết quả làm cho bệnh trầm trọng thêm.

Riêng với trẻ em càng đặc biệt chú ý việc cấm này vì: aspirin là yếu tố thúc đẩy gây hội chứng Reye (phù não và suy gan nhiễm mỡ với tỷ lệ tử vong khoảng 30-50%, nếu sống sót cũng để lại di chứng tổn thương não vĩnh viễn).

Không dùng kháng viêm không steroid: Các kháng viêm không steroid đều có tính này (với các mức khác nhau) nên cũng làm cho việc chảy máu trong SXH không cầm được.

Dùng dịch truyền:

Ưu tiên bù dịch bằng đường uống: Người bệnh SXH rất nhạy cảm, dễ bị sốc phản vệ. Nếu SXH ở độ I đầu độ II cần ưu tiên bù dịch bằng đường uống (oresol).

Chỉ truyền dịch khi cần thiết: Khi SXH ở cuối độ II hay đầu độ III, huyết tương thoát ra ngoài mạch nhiều, thể tích máu trong lòng mạch giảm sút, sốt cao làm mất nước, làm cho sự giảm sút này tăng thêm, máu bị cô đặc lại, huyết áp tụt xuống, tim nhanh dẫn đến trụy tim mạch cho nên cần truyền dịch. Dịch bị mất trong trường hợp này là "mất nước nhiều hơn mất muối" nên dung dịch truyền phải chứa ít muối. Tốt nhất là chọn dung dịch riger lactat (chứa natri clorid + kali clorid + canxi clorid + natrilactat). Nếu không có thì trộn dung dịch glucose đẳng trương (5%) với dung dịch natri clorid đẳng trương (0,9%) mỗi loại 50%. Khi rất nặng, truyền các dung dịch này mà không nâng được huyết áp thì dùng các dung dịch cao phân tử nhưng phải dùng ở nội viện.

Liều lượng và thời gian bù dịch:

Cần bù đủ lượng dịch bị mất trong vòng 24 giờ nhưng trong 8 giờ đầu chỉ bù 50% và 16 giờ sau bù tiếp 50% lượng dịch bị mất.

sot-xuat-huyet-nhung-loai-thuoc-can-tranh-khi-mac-sot-xuat-huyet-giadinhonline.vn 1

Dùng dịch truyền để điều trị bệnh sót xuất huyết.

Với trẻ em: Lượng dịch cần bù bằng P1 (thân trọng lúc chưa mắc bệnh) trừ đi P2 (thân trọng khi mắc bệnh). Trẻ em trước khi mắc bệnh không cân nên không biết P1. Vì thế, theo kinh nghiệm, có thể tính liều cho trẻ em dựa vào P2. Liều tính bằng ml/kg/trong 24 giờ trong ngày thứ nhất, hai, ba như sau: P2 = 7kg, liều 220-165-132; P2 = 8kg-11kg, liều 165-132-88; P2 = 12kg-18kg, liều 132-88-88; P2 = 18kg liều 88-88-88.

Với người lớn: Với SXH độ II ở giờ đầu liều 6-7mg/kg/giờ, ở giờ thứ hai và ba liều 5ml/kg/giờ ở thứ tư và năm liều 3ml/kg/giờ. Theo đó tính ra ở SXH độ II ở một người nặng trong các thời điểm trên lượng dịch truyền sẽ là 350ml + 500ml + 300ml = 1.150ml. Với SXH độ III, truyền nhiều hơn ứng với các thời gian trên là lần lượt là các liều:15-20ml/kg/giờ -10ml/kg/giờ - 7,5 ml/kg/giờ.

Tốc độ truyền dịch: Từ lượng dịch và thời gian cần bù nói trên, tính ra tốc độ truyền bằng ml/giờ nhưng tốt nhất là tính bằng giọt/phút dễ theo dõi hơn. Là tốc độ tính bằng ml/giờ chia ra 3 lần thì ra tốc độ tính bằng giọt/phút. Ví dụ: tốc độ 100ml/giờ chia ra 3 lần thì quy ra bằng tốc độ 33 giọt/phút.

Không cần dùng kháng sinh

Dùng kháng sinh nhằm làm yếu virut, tạo điều kiện thuận lợi cho kháng thể tiêu diệt virut bằng cách thực bào. Trong SXH, kháng thể tiêu diệt trái lại làm cho virut phát triển (như nói trên) nên việc dùng kháng sinh không có ý nghĩa. Hơn nữa, trong SXH, máu bị cô đặc, dùng nhiều kháng sinh bao vây sẽ làm cho nồng độ kháng sinh máu cao, dễ gây tai biến.

Theo DS. Bùi Văn Uy

Tags:
Sau 65 tuổi người tự do tận hưởng, người lại gánh bệnh tật: Khác biệt nằm ở đâu?
Bộ Y tế hướng dẫn người dân tham dự sự kiện diễu binh, diễu hành
Gần 500 người được hỗ trợ y tế tại buổi tổng duyệt A80
Viêm xoang ở trẻ nhỏ: Những điều cần lưu ý
Loại trừ ung thư cổ tử cung – Mô hình sàng lọc mới có thể thay đổi tương lai của phụ nữ Việt Nam
Người suy tim nên làm gì để làm chậm tiến triển bệnh?
TS.BS Quách Hữu Trung – Người “gieo hạt” đổi mới cho y tế miền Trung và hành trình tại Vinmec Đà Nẵng
Vụ “Gangnam Style” bị khởi tố: Được mua thuốc hướng thần trong trường hợp nào?
Mề đay tái phát sau sinh: Nỗi khổ ít ai thấu hiểu
 Suýt liệt nửa người vì thói quen cúi đầu dùng điện thoại
Chứng run tay chân có thật sự vô hại?
Hành động chủ quan khiến nam thanh niên mắc viêm họng mạn tính
Bộ Y tế bác tin Việt Nam có ca mắc bệnh Chikungunya
Tạo “lá chắn miễn dịch” bảo vệ trẻ sơ sinh trong giai đoạn đầu đời
Cụ ông U80 “trốn vợ” đi xe máy từ Nghệ An ra Hà Nội: Bí quyết sống khỏe khiến ai cũng bất ngờ
Tìm hiểu về bướu cổ lành tính và cách cải thiện bệnh
“Bàn tay vàng” trong lĩnh vực ghép tim “đầu quân” cho Vinmec Nha Trang
Đơn thuốc
4 dấu hiệu bất thường ở mắt cảnh báo ung thư
Biến chứng lupus ban đỏ: Nguy cơ tổn thương đa cơ quan
Xem thêm