Thứ bảy, 23/11/2024 12:05     |   Tiêu dùng     |   Nhịp sống miền Tây     |   Phụ nữ Sức khoẻ
|
Hà nội 21*C/61%
Thứ năm, 03/07/2014 15:38

Người nhẹ gót thang mây với lòng từ bi vô lượng

Cuộc đời và sự nghiệp cứu độ chúng sinh của Hòa thượng Thích Viên Thành.

Ngài sinh ngày 15 tháng 7 năm 1950 (1-6-Canh Dần) tại làng Thượng Cát, huyện Từ Liêm, Hà Nội, thân phụ là cụ ông Phùng Xuân Chỉ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thìn. Khi Hoà Thượng chưa tròn một tuổi thì thân phụ đã sớm quy Tây. Ngài chỉ còn dựa vào tình thương yêu của thân mẫu và sự đùm bọc của bà nội cùng bà con lối xóm. Cảnh sinh ly tử biệt ấy đã làm cho Ngài sớm nhận ra lẽ vô thường của kiếp nhân sinh. Noi gương hai người cô ruột là sư cụ Ðàm Mậu và sư cụ Ðàm Ngọ trụ trì chùa Bi, tỉnh Vĩnh Phúc, Hoà Thượng quyết chí xuất gia cầu Ðạo.

Sáng nay làng xóm tiễn chân đi,

Nhìn lại quê hương biết nói gì.

Vầng ác chưa lên còn tối đất,

Bụi hồng chửa bợn tấm thanh y

Tuy tuổi đời còn rất nhỏ nhưng chí khí xuất trần của Hoà thượng rất mãnh liệt qua vần thơ tạ từ chú đi tu vào năm 12 tuổi:

Chú ơi! xin chú hiểu lòng tôi,

Giờ phút chia tay đã đến rồi.

Vẫn biết gia phong cần giữ đấy,

Nhưng vì chân lý phải đành thôi.

Cỏ hoa tuế nguyệt còn thay đổi,Dâu biển xưa nay vẫn lở bồi.

Nay nếu không đi cầu Chính Pháp/

Sợ sau sẽ phải hối muôn đời.
Chú ơi! ân nghĩa cháu không quên,

Nguyện chứng chân như sẽ báo đền,

Chú ở lại nhà xây tổ nghiệp,

Cháu đi cầu Pháp cứu oan khiên

.Kẻ vun cội Phúc cho tươi tốt,

Người đắp nền Nhân thật vững bền.

Chú cứ yên tâm đừng có ngại,

Cháu thề quyết chí gắng tu nên.

Năm 15 tuổi, Ngài được Sư tổ Thích Thanh Chân, động chủ Hương Tích, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Ðức, tỉnh Hà Tây thu nhận làm đệ tử. Năm 19 tuổi, Hoà Thượng được Hoà thượng Bản Sư cho thụ giới Sa Di. Sau khi thụ giới Sa Di, Hoà Thượng càng tỏ ra tinh tiến hành Ðạo nên năm 1972 Ngài được đăng đàn thụ Cụ túc, viên mãn Tam đàn Giới pháp tại Tỉnh Hội Phật giáo tỉnh Hà Sơn Bình.

nguoi-nhe-got-thang-may-voi-long-tu-bi-vo-luong-giadinhonline.vn 1

Hòa thượng Thích Viên Thành

Nhận thấy Hoà thượng có chí cầu học, siêng năng đèn sách, Hoà thượng Bản Sư kỳ vọng Ngài sẽ là Pháp khí trong Ðạo Pháp nên đã cho phép Hoà Thượng xuống núi, theo học lớp Trung cấp Phật học tại chùa Quảng Bá và Quán Sứ, Hà Nội niên khoá 1973- 1976.

Tòa chùa mỹ lệ gữa kinh thành

Quán sứ lưu truyền rạng sử sanh

Phật pháp uyên dương dong đuốc tuệ

Tăng già hòa hợp nổi tu hành

Bao phen binh hỏa còn in dấu

Mấy lớp phong sương đã tảo thanh

Trong thời gian theo học tại chùa Quán Sứ, Hoà Thượng không những xuất sắc về mặt học vấn mà còn tinh nghiêm cả về Giới luật nên khi tốt nghiệp, được Giáo hội tuyển chọn vào Trường Cao Cấp Phật học Việt Nam (nay là Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội) Khoá I, niên khoá 1981- 1985. Năm l985, tốt nghiệp Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, Hoà Thượng trở về chốn Tổ, phụng sự Tam Bảo và bắt đầu hoằng dương Phật pháp.

Sau khi rời ghế trường Phật học, Hoà Thượng nguyện làm sứ giả của Như Lai, đem ánh sáng từ bi và giác ngộ của đức Phật thắp sáng thế gian này bằng tinh thần vô uý vị tha. Ngài luôn quan tâm đến việc đào tạo, giáo dục thế hệ Tăng Ni trẻ, coi đó là việc báo đáp thâm ân của chư Phật một cách thiết thực nhất. Vì vậy, ngài đã là Giáo sư của các Trường Trung cấp Phật học cũng như Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội.

Năm 1984, ngay khi còn theo học Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, đáp lời thỉnh cầu tha thiết của chính quyền và nhân dân địa phương, Hoà Thượng về nhận lãnh trách nhiệm trụ trì chùa Thầy - Thành tích của ngài Từ Ðạo Hạnh.

Năm 1985, với giới đức trang nghiêm và hạnh nguyện từ bi vô ngại, Ngài đã được Sư Tổ tức Hoà thượng Thích Thanh Chân tin tưởng trao truyền kế đăng Ðộng chủ Hương Tích.

Năm 1987, tại Ðại hội Phật giáo Việt Nam kỳ III, Ngài được tấn phong lên hàng Giáo phẩm Thượng tọa và được suy cử vào Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Tại Ðại hội kỳ III Tỉnh hội Phật giáo Hà Tây, Hoà Thượng được bầu làm Phó ban Trị sự Kiêm Chánh thư ký Tỉnh Hội.
Ðể tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, Hoà Thượng đã cùng Chư tôn đức thành lập Trường Trung cấp Phật học tỉnh Hà Tây và Ngài được giao trọng trách làm Phó hiệu trưởng thường trực của Trường.

Trong các Ðại giới đàn, Hoà Thượng từng được cung thỉnh làm Yết Ma A Xà Lê sư, Tôn chứng sư.

Năm 1998, chùa Thầy được chọn làm Ðạo tràng An cư kiết hạ của tỉnh Hà Tây, Hoà Thượng được suy tôn làm Ðường chủ của Trường Hạ.
Năm 1993, Ngài được bầu làm Uỷ viên thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đồng thời là Phó ban Từ thiện Trung ương và là Uỷ viên ban Hoằng pháp Trung ương.

Từ năm 1998, Hoà Thượng được suy cử làm Phó ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban Trị sự PG tỉnh Phú Thọ.

Ðể báo đáp công ơn thầy Tổ và trang nghiêm ngôi Tam Bảo, cùng với cương vị Trụ trì chùa Hương, Hoà Thượng đã đảm nhận chức vụ Trưởng Ban xây dựng và tôn tạo chùa Hương (năm 1947 chùa Hương đã bị giặc Pháp thiêu huỷ hoàn toàn). Ngài đã cùng với các cơ quan hữu quan, Phật tử và nhân dân địa phương trùng tu ngôi Ðại hùng Bảo điện, Tổ đường v.v... làm cho ngôi danh thắng chùa Hương trở thành uy nghiêm tráng lệ như ngày hôm nay. Ðồng thời Hoà Thượng còn kiêm nhiệm vụ Trụ trì chùa Thầy xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Nơi đây Hoà Thượng đã tu bổ nhiều hạng mục công trình, duy trì phát triển Thánh tích chùa Thầy ngày một trang nghiêm hơn.

Tuy phải điều hành Phật sự tại hai chốn danh lam lớn là chùa Hương và chùa Thầy, lại nhận lĩnh các chức vụ của Phật giáo tỉnh nhà cũng như của Giáo hội nhưng Hoà Thượng cũng luôn tích cực tham gia các hoạt động xã hội tại địa phương. Bất kỳ ở cương vị nào Hoà Thượng cũng đều tận tâm, nêu gương tiêu biểu trong việc tốt đạo đẹp đời. Vào đời bằng hạnh nguyện Bồ tát, Hoà Thượng đã tham gia tích cực các công tác từ thiện xã hội để đem lại an lạc, hạnh phúc cho nhân sinh.

Trong suốt cuộc đời hoằng pháp độ sinh không mỏi mệt của mình, với tâm nguyện đem sự thực hành tâm linh lợi ích cho nhân dân Việt Nam, đặc biệt thắp sáng truyền thống Kim Cương thừa vốn đã từng được truyền vào Việt Nam cách đây hơn 1.000 năm, Ngài đã thiết lập mối nhân duyên Phật pháp với các bậc Thượng sư Truyền thừa Drukpa, truyền thống Phật giáo Đại thừa – Kim Cương thừa lừng danh với khả năng tu chứng và sự thực hành tâm linh thanh tịnh của các bậc Yogi giác ngộ, với di sản tâm linh quang vinh siêu việt suốt 800 năm phụng sự nhân loại và vũ trụ.

nguoi-nhe-got-thang-may-voi-long-tu-bi-vo-luong-giadinhonline.vn 2

Hạnh ngộ Đức Giáo chủ Je Khenpo tại Vương quốc Bhutan

Truyền thừa Drukpa là truyền thống Kim Cương thừa, có tầm ảnh hưởng sâu rộng tại các quốc gia trên dãy Hymalaya và hiện nay được hoằng truyền mạnh mẽ tại nhiều quốc gia trên thế giới. Từ rất sớm, trong những năm đầu thập niên 90 thế kỷ trước, Ngài đã phát nguyện kết nối với các bậc Thầy tu chứng của truyền thống Kim Cương thừa. Năm 1992, nhân duyên cát tường hội đủ, theo lời mời riêng của ông John (Đại sứ Anh tại Bhutan lúc bấy giờ), Ngài đã viếng thăm Vương quốc Bhutan để hạnh ngộ bậc Kim Cương Thượng sư truyền thừa Drukpa là Đức Giáo chủ Je Khenpo, và thọ nhận các Giáo pháp Quán đỉnh cốt tủy của truyền thừa Drukpa từ bậc Thầy của mình để hướng dẫn các đệ tử và Phật tử thực hành giáo pháp tinh túy và chân chính của Kim Cương thừa.

Với sở học uyên thâm, giới đức trang nghiêm, từ bi vô lượng, những tưởng Hoà Thượng còn trụ thế lâu hơn để hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử trên con đường tìm về bến giác. Nào ngờ cơn bạo bệnh chợt đến, Hoà Thượng thuận lẽ vô thường trả tấm thân tứ đại lại cho trần gian mộng ảo để trở về thế giới vô tung bất sinh bất diệt vào lúc 18 giờ 40 phút ngày 31 tháng 5 năm 2002 (tức ngày 20 tháng 4 năm Nhâm Ngọ), trụ thế 53 năm, hạ lạp 32 năm, để lại tâm nguyện tha thiết hướng về phát triển của Truyền thừa Drukpa tại Việt Nam.

Tuy đã nhẹ gót thang mây, thâu thần trực vãng, nhưng với lòng từ bi vô lượng, Ngài vẫn âm thầm gia trì bảo hộ và kết nối các hành giả Việt Nam với bậc Kim Cương Thượng sư giác ngộ. Nhiều năm sau đó, vâng lời di huấn của bậc Thầy mình, các đệ tử của Ngài vẫn tiếp tục tìm cầu Giáo pháp từ các bậc Thượng sư giác ngộ, và cuối cùng họ đã hạnh ngộ Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa, Bậc lãnh đạo tâm linh tối thượng của Truyền thừa Drukpa tại Ladakh vào năm 2004.

Nhân duyên Phật Pháp đã hội đủ trong Đại lễ thành tựu giả Naropa, khi Đức Pháp Vương khoác lên mình Sáu Sức Trang Hoàng của Naropa. Theo lời thỉnh cầu tha thiết chí thành từ các đệ tử của Hoà Thượng, Đức Pháp Vương đã hoan hỷ nhận lời quang lâm Việt Nam lần đầu tiên vào cuối năm 2007, và sau đó là vào các năm 2008, 2010, gieo những hạt giống giác ngộ và sự phát triển mạnh mẽ của truyền thừa Drukpa vì lợi ích vô số người dân và hữu tình Việt Nam.

53 năm tuy ngắn ngủi nhưng Hoà Thượng đã sống một cách trọn vẹn, đầy ý nghĩa, đã hiến trọn cả cuộc đời cho Ðạo pháp, cho Dân tộc.

Theo Tạp chí Đạo Phật Ngày nay

Tags:
Cuộc sống 9 hộ gia đình 'mắc kẹt' nơi nghĩa trang: Ngày nghe kèn, đêm tiếng thầy cúng
7 năm chống chọi ung thư, đau đáu một điều mong con được học hành khôn lớn
Vợ mất do ung thư, con TNGT, bố mắc bệnh hiểm nghèo nguy cơ đột tử
Thanh Hoá: Gần 100 hộ gia đình thị xã khốn khổ vì đường điện tự làm từ 20 năm trước
Ông nội cắm sổ đỏ cứu cháu mắc bệnh tim hiểm nghèo
Khám chữa bệnh BHYT được chi trả như thế nào từ ngày 1/7?
Những trường hợp bắt buộc phải đổi thẻ Căn cước công dân từ 01/07/2024
Mẹ già bán nhà giữ sinh mạng con trai bị điện giật nguy kịch
Hàng xóm góp gạo, củi khô lo hậu sự cho nạn nhân vụ cháy nhà ở Trung Kính - Hà Nội
Mồ côi bố mẹ, nam thanh niên 'khuyết tật' đang từng ngày vật lộn với bệnh tim
Ông nội nhọc nhằn níu giữ sự sống cho cháu trai mắc bệnh tan máu bẩm sinh
Nhặt ve chai nuôi vợ con tâm thần, lo cháu ngoại ăn học
Mẹ con tật nguyền mưu sinh trong ngôi nhà chưa đầy 10m2
Mỗi tuần một địa chỉ nhân đạo giúp 10 gia đình nghèo ổn định cuộc sống
Vợ bệnh tật hơn 6 năm chăm chồng bị liệt
Bé trai 6 tuổi mắc xơ gan hiếm gặp, mất 200 triệu đồng vẫn đau đớn từng ngày
Éo le phận đời 4 chị em mất mẹ giữa những ngày mưa lũ
Xem thêm