Những lý giải về số phận con người
Nói chung, tất cả mọi thuyết dẫn tới thái độ yên phận và tiêu cực của con người đều thiếu giá trị nhân bản, dù chúng mang bất cứ nhãn hiệu nào.
Túc mệnh luận là thuyết cho rằng số phận con người là do quá khứ trước đây an bài, sắp đặt cả, mọi cố gắng hay nỗ lực đều vô ích.
Con vua rồi lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa
Những người ở Trung Quốc xưa hay nói câu: "Nhất ẩm nhất trác mạc phi tiền định", nghĩa là ăn một miếng, uống một chén, không gì là không do quá khứ quyết định trước. Có thể nói đó là những người theo túc mệnh luận cực đoan.
Theo túc mệnh luận, số phận con người là do quá khứ trước đây an bài, sắp đặt cả.
Định mệnh luận cũng là túc mạng luận, nhưng cường điệu tính chất bất khả kháng của số mệnh. Ý nói, số mệnh là quyết đinh, mọi cố gắng con người đều vô ích.
Thiên mệnh luận có nhiều nghĩa, không phải nghĩa nào cũng sai. Nếu hiểu thiên mệnh là thiên đạo, tức là đạo trời, là luật tắc tự nhiên, áp dụng vào thế giới của nhân sinh thì không có gì sai. Phải chăng, đó là ý tứ của Khổng Tử trong Luận Ngữ: "Ngô… ngũ thập nhi tri thiên mệnh"- (Ta…năm mươi tuổi thì biết mệnh Trời).
Nếu hiểu mệnh Trời là số mệnh mà ông Trời quy định cho mình thì đó là số mệnh luận, hay đúng hơn là thiên mệnh luận, và tất nhiên Phật giáo sẽ bác bỏ thuyết đó. Nhưng Tống Nho Chu Hy lại giải thiên mệnh như là "nguyên lý vận hành và biến hoá của tự nhiên" thì đây không phải là số mệnh luận. Nhưng vấn đề còn tuỳ thuộc ở phái Tống Nho hiểu luật tắc tự nhiên như thế nào.
Ở chương 16 cuốn "Đạo Đức Kinh", Lão Tử cũng nói "Phục Mệnh", nhưng trong văn cảnh của chương này, thì mệnh ở đây rõ ràng chỉ có nghĩa là đạo, chứ không phải là số mệnh. "Phù vật vân vân, các phục kỳ căn, quy căn viết tĩnh, thị vi phục mệnh"- (muôn vật phồn thịnh, mỗi vật đều trở về cội gốc của mình, trở về cội gốc thì gọi là tĩnh, tức là trở về với mệnh).
Rõ ràng, Lão Tử dùng từ mệnh ở đây không phải với nghĩa số mệnh, mà với nghĩa đạo, tức là cội nguồn của trời đất muôn vật.
Trong Thần hệ Hy Lạp cổ đại có Thần số mệnh gọi là Fate, mà cả đến Zeus, vị Thần tối cao đứng đầu các vị Thần, cũng phải e dè, nể sợ. Như vậy, người Hy Lạp cổ đại tin rằng, tất cả các vị Thần, kể cả Zeus cũng phải phục tùng số mệnh.
Niềm tin ở số mệnh phổ biến như vậy, lan tràn như vậy, từ xưa tới nay, từ Tây sang Đông, thì phải chăng niềm tin đó có đạo lý của nó, cơ sở khoa học khách quan của nó?
Người Pháp có câu: "I’homme propose, Dieu dispose"(người kiến nghị nhưng Thượng Đế bác đi). Đây cũng là một biểu hiện rõ nét của thuyết mà Phật giáo gọi là Thần ý luận, khẳng định mọi sự việc trong thế gian này đều do ý muốn của Thượng Đế và ý muốn đó là siêu việt, vượt trên tầm hiểu biết của con người, cho nên con người chỉ nên phục tùng, không những không được chống đối mà còn phải cảm tạ và tri ân Thượng Đế.
Thiên mệnh luận cũng là số mệnh, nhưng số mệnh được nhân cách hoá thành Thượng Đế, hay là số mệnh do một nhân cách siêu nhiên an bài, xếp đặt. Cái nguy của thuyết này là một mặt khiến cho con người ta an phận thủ thường, mất hết ý chí phấn đấu, mặt khác lại khiến cho con ngưòi trốn tránh trách nhiệm của mình, thậm chí mình giết người, đoạt của, nhưng lại tự an ủi: đó là do Thượng Đế muốn như vậy, đó là ý chí huyền nhiệm của Thượng Đế.
Phật giáo tôn trọng tất cả tôn giáo bạn, kể cả những tôn giáo công nhận có Thượng Đế tạo thế. Đó là đường lối thuỷ chung như nhất của Phật giáo từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như ở các nước Phật giáo khác. Tính bao dung về mặt tư tưởng vốn là một đặc tính của Phật giáo mà các nhà tôn giáo học trên thế giới đều công nhận, nhưng điều này không có nghĩa là Phật giáo chấp nhận, không phản đối một số quan điểm của những tôn giáo đó về vũ trụ và nhân sinh.
(Còn nữa)
Giáo sư Minh Chi
Học viện Phật giáo Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh